Thế nào là Kháng Kháng Sinh?

Thuốc kháng sinh là vũ khí tuyệt vời do con người tạo ra để chống lại các bệnh do nhiễm vi khuẩn, nhưng giờ đây vi khuẩn lại có khả năng đề kháng lại thuốc kháng sinh vốn được dùng để tiêu diệt chúng. Kháng kháng sinh đang là mối đe dọa lớn nhất đối với toàn ngành y tế nói riêng và cả xã hội nói chung.

1. Kháng thuốc kháng sinh là gì?

Đề kháng kháng sinh không có nghĩa là cơ thể chống lại tác dụng của kháng sinh. Hiện tượng kháng kháng sinh xảy ra khi mầm bệnh hay vi khuẩn có khả năng tạo ra cách chống lại thuốc kháng sinh làm cho kháng sinh không thể tiêu diệt hoặc ngăn chặn được sự phát triển của chúng.

Vi khuẩn có thể kháng thuốc kháng sinh một cách tự nhiên hoặc kháng thuốc thu được nhờ đột biến gen hoặc tiếp nhận gen kháng thuốc từ một loài vi khuẩn khác.

Vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh làm cho việc điều trị bệnh nhiễm khuẩn trở nên khó khăn, thậm chí không thể điều trị được. Nhiễm khuẩn do vi khuẩn đề kháng buộc bác sĩ phải sử dụng thuốc kháng sinh thay thế, thường có độc tính cao hơn dẫn đến thời gian nằm viện kéo dài và gây ra tốn kém chi phí y tế.

Không ai có thể hoàn toàn tránh được tình trạng kháng kháng sinh của vi khuẩn, ngay cả những kỹ thuật tiên tiến trong y khoa như hỗ trợ tim phổi, lọc máu, cấy ghép… cũng phải phụ thuộc vào khả năng chống lại vi khuẩn gây bệnh của kháng sinh.

Cho dù nhân loại đang có những nỗ lực để phát triển kháng sinh mới nhưng tình trạng kháng kháng sinh vẫn tiếp tục diễn ra với tốc độ nhanh và phức tạp hơn.

2. Thực trạng của kháng kháng sinh

Đề kháng kháng sinh có thể ảnh hưởng đến bất kỳ ai, không chỉ ngành y tế mà còn trong ngành thú y, nông nghiệp. Thực trạng kháng kháng sinh trong vài thập kỷ gần đây đang là thách thức đe dọa toàn cầu, đặc biệt tại các nước đang phát triển với các bệnh truyền nhiễm còn chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu bệnh tật như: nhiễm khuẩn đường tiêu hoá, đường hô hấp, các bệnh lây truyền qua đường tình dục và nhiễm khuẩn bệnh viện…. Việc kiểm soát các loại bệnh này đã và đang trở nên khó khăn hơn do sự phát triển và lan truyền tình trạng kháng kháng sinh của vi khuẩn. Theo thống kê tại Mỹ, có hơn 2 triệu người mắc bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn kháng thuốc hàng năm và trong đó có ít nhất 23.000 trường hợp tử vong.

Những vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh gây đe dọa an ninh sức khỏe toàn cầu đang được cảnh báo bao gồm: các chủng Gram âm đường ruột kháng carbapenem, cầu khuẩn ruột kháng vancomycin, tụ cầu vàng kháng methicillin, phế cầu, lậu cầu kháng thuốc, Clostridioides difficle, lao kháng thuốc… Việc kháng thuốc kháng sinh là một mối hiểm họa to lớn bởi lẽ vi khuẩn gây bệnh không còn sợ hãi trước các vũ khí của con người. Lúc này, kháng sinh chỉ kìm hãm hoặc tiêu diệt được các vi khuẩn có lợi, còn những vi khuẩn kháng thuốc sẽ nhân lên nhanh chóng, lây lan và gây bệnh nhiễm khuẩn không thể kiểm soát được.

Vậy, bằng cách nào vi khuẩn có thể kháng thuốc kháng sinh?

Thứ nhất: vi khuẩn ngăn cản kháng sinh xâm nhập vào bên trong chúng bằng cách củng cố hoặc biến đổi cấu trúc các màng bảo vệ của chúng. Ví dụ như vi khuẩn Gram âm có lớp màng ngoài (outer membrane) để ngăn cản kháng sinh thấm vào bên trong.

Thứ hai: vi khuẩn tạo ra các bơm đẩy để bơm kháng sinh ra ngoài. Ví dụ như trực khuẩn mủ xanh có thể tạo ra bơm đẩy nhóm kháng sinh quinolon, beta lactam dẫn đến kháng sinh bị vô hiệu hóa.

Thứ ba: vi khuẩn sản xuất ra các men (enzymes) để phá hủy kháng sinh như các men penicillinase, beta lactamase phổ rộng, carbapenemase… Đây là cách thức phổ biến mà vi khuẩn tạo ra để chống lại hầu hết các nhóm kháng sinh. Ví dụ như Klebsiella pneumoniae sinh ra men carbapenemase KPC phá hủy nhóm carbapenem; Escherichia coli sinh beta lactamase phổ rộng ESBL kháng cephalosporin…

Thứ tư: vi khuẩn biến đổi cấu trúc các bộ phận của chúng, làm cho kháng sinh không nhận ra đích tác dụng. Ví dụ như thay đổi protein gắn penicillin PBP là cách mà vi khuẩn chống lại kháng sinh nhóm beta lactam. Đột biến gen mã hóa cho men DNA-gyrase là cách để kháng lại nhóm kháng sinh quinolon.

Đôi khi, vi khuẩn không chỉ sử dụng một trong các cách trên mà chúng kết hợp đồng thời nhiều cách để kháng lại rất nhiều nhóm kháng sinh khác nhau, được gọi là các chủng vi khuẩn đa kháng kháng sinh. Ví dụ: những vi khuẩn thường gây nhiễm khuẩn bệnh viện như trực khuẩn mủ xanh, Acinetobacter baumanii… có thể đề kháng lại hầu hết các nhóm kháng sinh đang có.

3. Hạn chế tình trạng kháng thuốc kháng sinh

Kháng thuốc kháng sinh gia tăng chủ yếu do lạm dụng kháng sinh quá mức, sử dụng kháng sinh sai và các biện pháp phòng ngừa nhiễm khuẩn không được thực hiện tốt.

Để tình trạng kháng thuốc kháng sinh không trở nên nghiêm trọng hơn, cần thực hiện tốt các nguyên tắc sau đây:

  • Kháng sinh chỉ có tác dụng trên vi khuẩn, không giúp điều trị các bệnh do virus như cúm, cảm lạnh thông thường.
  • Chỉ sử dụng thuốc kháng sinh khi thật sự cần thiết và phải do bác sĩ kê đơn.
  • Kể cả khi bệnh đã khỏi, cũng không được dừng sử dụng thuốc cho đến khi hết thời gian sử dụng mà bác sĩ yêu cầu.
  • Không được tự ý mua thuốc kháng sinh hoặc yêu cầu bác sĩ kê đơn kháng sinh khi không có chỉ định.
  • Mỗi loại kháng sinh chỉ có tác dụng trên một số loại vi khuẩn nhất định, cần phải sử dụng kháng sinh phù hợp với chủng vi khuẩn gây bệnh.
  • Không chia sẻ kháng sinh với người thân hoặc bạn bè.

Dự phòng mắc bệnh nhiễm khuẩn bằng cách thường xuyên vệ sinh tay, ăn uống sạch sẽ, tránh tiếp xúc gần gũi với người bị bệnh và tiêm phòng vắc xin đầy đủ.

Nguồn: Vimec